Mức đóng thuế nhà thầu khi lắp đặt phần mềm ERP của nhà thầu nước ngoài
Ngày 03/10/2016
Nhiều doanh nghiệp FDI đang lắp đặt và sử dụng phần mềm quản lý ERP từ nhà thầu nước ngoài, tuy nhiên theo hợp đồng thì doanh nghiệp ở Việt Nam chỉ có quyền sử dụng chứ không sở hữu phần mềm. Vậy chi phí lắp đặt này có phải chịu thuế TNDN không và được xem là dịch vụ hay bản quyền?
Trước vấn đề này, Tổng cục Thuế cho rằng, theo quy định tại Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31-12-2013 của Bộ Tài chính, phần mềm máy tính bao gồm sản phẩm phần mềm và dịch vụ phần mềm theo quy định của pháp luật không phải là đối tượng chịu thuế GTGT.
Mặt khác, tại Thông tư số 103/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về thu nhập chịu thuế TNDN bao gồm: Thu nhập phát sinh tại Việt Nam của nhà thầu nước ngoài, nhà thầu phụ nước ngoài là các khoản thu nhập nhận được dưới bất kỳ hình thức nào trên cơ sở hợp đồng nhà thầu, hợp đồng nhà thầu phụ, không phụ thuộc vào địa điểm tiến hành hoạt động kinh doanh của nhà thầu nước ngoài, nhà thầu phụ nước ngoài. Thu nhập chịu thuế của nhà thầu nước ngoài, nhà thầu phụ nước ngoài trong một số trường hợp cụ thể như: Thu nhập từ tiền bản quyền là khoản thu nhập dưới bất kỳ hình thức nào được trả cho quyền sử dụng, chuyển quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, bản quyền phần mềm.
Theo Tổng cục Thuế, căn cứ các quy định trên thì về nguyên tắc nếu phần mềm ERP là phần mềm máy tính thì thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT theo quy định tại Thông tư số 219/2013/TT-BTC.
Tuy nhiên, theo quy định tại nội luật (cụ thể, tại Thông tư số 103/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam), tỷ lệ % thuế TNDN tính trên doanh thu tính thuế đối với thu nhập bản quyền là 10%. Như vậy, thu nhập của nhà thầu nước ngoài từ việc thực hiện Hợp đồng lắp đặt phần mềm ERP với doanh nghiệp FDI Hàn Quốc ở Việt Nam thuộc đối tượng nộp thuế TNDN tại Việt Nam với mức thuế suất là 10%.
Cùng với đó, quy định tại Hiệp định tránh đánh thuế hai lần nêu rõ, tiền bản quyền phát sinh tại một nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của nước ký kết kia có thể phải chịu thuế tại nước kia. Tuy nhiên, những khoản tiền bản quyền đó cũng có thể bị đánh thuế tại nước ký kết nơi phát sinh, và theo các luật của nước này, nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền bản quyền là đối tượng cư trú của nước ký kết kia, thì mức thuế được tính sẽ không vượt quá 5% hoặc 15% tùy vào từng trường hợp cụ thể.
Bởi vậy, theo quy định của Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, thu nhập của nhà thầu nước ngoài từ việc thực hiện Hợp đồng lắp đặt phần mềm ERP với doanh nghiệp FDI Hàn Quốc ở Việt Nam sẽ chịu mức thuế suất không vượt quá 15% trên tổng số tiền bản quyền.
Trước những khác biệt giữa nội luật và Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, tại Thông tư 205/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và tài sản giữa Việt Nam với các nước và vùng lãnh thổ có hiệu lực thi hành tại Việt Nam quy định, trường hợp có sự khác nhau giữa các quy định tại Hiệp định và các quy định tại luật thuế trong nước thì sẽ áp dụng theo các quy định của Hiệp định. Hiệp định không tạo ra các nghĩa vụ thuế mới, khác hoặc nặng hơn so với luật thuế trong nước. Trường hợp tại Hiệp định có các quy định theo đó Việt Nam có quyền thu thuế đối với một loại thu nhập nào đó hoặc thu thuế với một mức thuế suất nhất định nhưng pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam chưa có quy định thu thuế đối với thu nhập đó hoặc quy định thu với mức thuế suất thấp hơn thì áp dụng theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế ở Việt Nam, nghĩa là không thu thuế hoặc thu thuế với mức thuế suất thấp hơn.
Như vậy, thu nhập của nhà thầu nước ngoài từ việc thực hiện Hợp đồng lắp đặt phần mềm ERP với doanh nghiệp FDI Hàn Quốc ở Việt Nam thuộc đối tượng nộp thuế TNDN tại Việt Nam với mức thuế suất là 10% theo quy định tại Thông tư số 103/2014/TT-BTC.
Nguồn: Báo Hải quan